Kiến Trúc Chùa_Dàn

Tượng Pháp Điện nguyên bản, chưa "phong y" (mặc áo)

Dấu tích Chùa Dàn từ thời Bắc thuộc không còn lại gì. Kiến trúc còn lại đến ngày nay là của thời Lê Trung Hưng - Nguyễn. Lần trùng tu gần đây nhất là năm 2017[2]. Hiện quần thể di tích gồm chùa và đình Dàn liên hoàn theo kiểu “tiền Thần hậu Phật” gồm: tam quan, phương đình, tiền tế, ống muống, thượng cung; phía sau là tam bảo hậu, nhà tổ, nhà mẫu, tháp mộ, vườn cây bao quanh.

Nhìn thẳng sau Tam quan là phương đình thời Nguyễn khá đồ sộ làm theo kiểu chồng diêm 2 tầng 8 mái đao cong mới được phục dựng[3]. Khu thờ tự chính của chùa gồm:

Tiền tế (còn được gọi là Đình Thượng) còn bảo lưu nguyên vẹn kiến trúc thời Lê - Nguyễn. Tiền tế có quy mô lớn với diện tích (21m x 9m) gồm 5 gian 2 chái với bốn góc đao cong vút, mái lợp ngói mũi, giữa bờ nóc đắp hình “Lưỡng long chầu nguyệt”, đầu kìm là 2 đầu rồng lớn; các góc đao được tạo dáng cong vút nhưng mềm mại duyên dáng, đầu đao trang trí hình rồng, phượng; bờ dải đắp nổi nghê chầu. Bộ khung được làm bằng gỗ lim to khỏe vững chắc (cột cái là 1,30m, cột quân là 0,85m), vì nóc kiểu “con chồng giá chiêng” ăn mộng với các hàng cột dọc và ngang, liên kết với hệ thống hoành, xà, cốn, bẩy.

Trên các bộ phận kiến trúc như đầu dư, cốn, bẩy đều được chạm nổi Tứ linh tinh xảo nghệ thuật. Đặc biệt là các đầu dư được chạm thành hình đầu rồng bằng kỹ thuật chạm kênh bong các nghệ nhân xưa đã thể hiện những đầu rồng to lớn, miệng há rộng để lộ rõ viên ngọc, bờm và râu tóc bay ngang nét mác mang phong cách nghệ thuật của thời Hậu Lê. Tại gian giữa đặt một sập thờ cổ kiểu chân quỳ chạm khắc xảo nghệ thuật; gian bên phải đặt ban thờ “Tổ nghề” có công dạy dân làng nghề làm lưỡi câu.

Ống muống là một tòa nhà chạy dọc nối giữa Tiền tế và Thượng cung bằng hệ thống vì, cột, kẻ góc, diện tích (7,30m x 8,10m), gồm 3 gian, bộ khung gỗ lim liên kết với nhau bởi các hàng cột dọc và ngang dọc (chu vi cột cái là 1,0m, chu vi cột quân là 0,68m). Ngăn giữa Ống muống và Thượng cung là hệ thống cửa cấm được trang trí hoa văn rồng mây. Tại Ống muống là nơi đặt khám thờ và ngai bài vị của Thành Hoàng.

Thượng cung nối với Ống muống, gồm 1 gian 2 chái với 4 mái đao cong, đỉnh nóc đắp nổi “Lưỡng phượng chầu đề” rất độc đáo. Bộ khung được làm bằng gỗ lim chắc khỏe, liên kết với nhau bởi vì nóc và các hàng cột dọc và ngang (cột cái có chu vi 1,35m, cột quân có chu vi 1,0m). Trên câu đầu còn nguyên dòng chữ Hán ghi khắc năm trùng tu tôn tạo vào thời vua Thành Thái (1903):

Thành Thái thập tứ niên, thập nhất nguyệt, thập lục nhật, tuế thứ Nhâm Dần thập nhị nguyệt thập lục nhật thụ trụ thượng lương thời đại cát.

Sau cùng là Tam Bảo hậu với kiến trúc thời Nguyễn, có kết cấu kiểu chuôi vồ gồm 7 gian tiền đường và 3 gian thượng điện, bộ khung gỗ lim chắc khỏe; vì nóc theo kiểu “con chồng, giá chiêng” liên kết với hệ thống cột, cốn ván mê, bẩy. Tam Bảo hậu là nơi có các lớp tượng về sau và cũng được bài trí như những ngôi chùa làng khác. Ngoài ra, còn có các công trình khác như nhà Tổ, nhà Mẫu, nhà sư, vườn Tháp… tạo thành một quần thể di tích[3].

Ngoài ra chùa còn bốn tấm bia có niên đại triều Nguyễn[5].